Chiến thắng Điện Biên Phủ: Quân và dân Hưng Nguyên tập trung sức người, sức của để chi viện cho tiền phương đánh to, thắng lớn.

Thứ năm - 02/05/2024 22:49
Trên cơ sở xây dựng, bảo vệ quê hương ngày thêm vững mạnh về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá - xã hội, và với trách nhiệm, nghĩa vụ đối với sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của cả nước, quân và dân Hưng Nguyên tập trung sức người, sức của chi viện cho các chiến trường.
Với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, đảm bảo thắng lợi cho chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, thực hiện Chỉ thị của Tỉnh ủy Nghệ về chủ động trong công tác huy động dân công. Huyện ủy Hưng Nguyên cũng như các cấp ủy trong tỉnh xác định huy động dân công phải “thành công tác thường xuyên; phải huy động xây dựng thành đội ngũ vững chắc để đến lúc cần là huy động được ngay”. Mỗi cán bộ, dân công của huyện nhà đã chủ động sắp xếp công việc gia đình, chuẩn bị tư trang, đồ dùng cá nhân thiết yếu, sẵn sàng chờ lệnh lên đường. Công việc sản xuất, đồng áng được nông hội đảm nhiệm để dân công đi làm nhiệm vụ yên tâm.
Kế hoạch chiến lược Đông Xuân 1951 - 1952 của Pháp liên tiếp bị phá vỡ. Bộ Chính trị Trung ương Đảng phán đoán: Địch sẽ tấn công Hòa Bình, một vị trí chiến lược của Bắc Bộ. Đây là một chiến dịch ta thu thắng lợi lớn, tạo đà cho quân ta mở chiến dịch Tây Bắc và phối hợp với Bạn mở chiến dịch Thượng Lào. Chuẩn bị phục vụ các chiến dịch trên, Huyện Hưng Nguyên đã huy động 1.100 dân công dài ngày và 10.000 ngày công lao động để phục vụ các chiến dịch này. Ủy ban kháng chiến hành chính (UBKCHC) huyện quyết định rút 130 dân quân và bộ đội địa phương huyện tăng cường cho lực lượng dân công. Trên vai đôi bồ, đường xa, gánh nặng, phong thổ khác lạ nhưng với tinh thần “Tất cả để tổng phản công thắng lợi”, các đoàn dân công của Hưng Nguyên đã hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao, 6 đồng chí đã anh dũng hy sinh trên con đường vận tải quân lương ra chiến trường.
ĐB1
Trên các chiến trường Bắc Bộ, Nam Bộ quân ta liên tục giành nhiều thắng lợi to lớn. Thế trận “Đông Dương là một chiến trường” đã hình thành đẩy kẻ địch từ bị động này đến bị động khác. Trên cơ sở phân tích tình thế giữa ta và địch, Trung ương Đảng ta quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954.
Nhiệm vụ chuẩn bị chiến trường được giao cho Bộ Tư lệnh Liên khu 4. Trên cơ sở mệnh lệnh của Tổng tư lệnh, Bộ tư lệnh Liên khu 4 giao cho hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An mở đường 15A, nạo vét kênh Nhà Lê nối liền giao thông thủy bộ giữa Liên khu III và Liên khu IV, Liên khu V và biên giới Việt - Lào. Tạo điều kiện cho hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh phát huy sức mạnh tổng hợp chi viện cho tiền tuyến đánh to, thắng lớn. Ngoài nhiệm vụ trên, Bộ Tư lệnh còn giao thêm cho Nghệ An chuẩn bị các căn cứ hậu cần để bảo đảm cho các đơn vị từ Bình - Trị - Thiên và Trung Lào sẽ về tập kết để xây dựng, luyện tập các phương án tham gia cuộc chiến Đông Xuân 1953 - 1954. Sau khi nhận kế hoạch, Tỉnh ủy, UBKCHC tỉnh đã có kế hoạch giao cho từng huyện. Với vị trí địa lý và tiềm lực của Hưng Nguyên trên tất cả các mặt trận, nhiệm vụ mà tỉnh, Liên khu giao, Hưng Nguyên đều đảm trách những phần việc nặng nề, khó khăn. Huyện ủy Hưng Nguyên đã mở hội nghị liên tịch giữ Huyện ủy, UBKCHC, Mặt trận, các đoàn thể và cấp ủy, chính quyền các xã để xây dựng quyết tâm, thống nhất phương án, phân chia lực lượng thành 6 mũi.
- Mũi 1: Đảm nhận sản xuất ở hậu phương, thâm canh gối vụ không để gián đoạn sản xuất.
- Mũi 2: Đảm nhiệm dân công mở đường.
- Mũi 3: Đảm nhiệm dân công vận tải.
- Mũi 4: Đại đội 2 thanh niên xung phong huyện (gồm 104 đội viên) phối thuộc với Tổng đội thanh niên xung phong Cù Chính Lan của tỉnh đi mở đường 15A đoạn giáp giới Thanh Hóa - Nghệ An.
- Mũi 5: Đảm nhận xay hết số thóc trong các kho Nhà nước, kho tỉnh, kho huyện vừa đổi hạt để chuẩn bị đưa ra chiến trường.
- Mũi 6: Tổ chức 200 dân công đi tham gia Mặt trận Trung Lào.
Các mũi tiến công cho chiến dịch Đông - Xuân 1953 - 1954 vừa được triển khai, dân công đi phục vụ Trung Lào vừa lên đường thì tỉnh phát động tổng động viên phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
ĐB3
Như vậy là ngoài 2.300 dân công đi phục vụ từ 3 - 6 tháng trong năm 1952, 800 dân công phục vụ trong năm 1953, trong dịp này cả Trung Lào và Điện Biên, huyện Hưng Nguyên phải huy động 2.500 dân công, 370 xe đạp thồ để vận chuyển hàng. Rút kinh nghiệm từ phục vụ chiến dịch Hà - Nam - Ninh các đoàn dân công được tổ chức hết sức chặt chẽ, tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy được tổ chức theo hình thức quân sự. Công tác chính trị trong dân công được chú trọng.
Được sự động viên của hậu phương, trong hào khí chung của dân tộc, trong 8 chiến dịch gần 1/4 triệu lượt nam, nữ thanh niên, trung niên huyện Hưng Nguyên đã lên đường đi dân công hỏa tuyến trên các chiến trường. Nhiều đội dân công, nhiều cá nhân đã lập thành tích xuất sắc. Điển hình là đồng chí Nguyễn Thị Liên ở xã Hưng Chính đã được tuyên dương là “Chiến sĩ thi đua” và được thưởng Huân chương Chiến công ngay tại mặt trận.
ĐB4
Cuối tháng 12 năm 1952, Huyện ủy, UBKCHC Hưng Nguyên tổ chức triển khai Sắc lệnh 129/SL đặt các “Bảng vàng danh dự” và “Gia đình vẻ vang” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh và gia đình quân nhân. Nhân dịp kỷ niệm ngày toàn quốc kháng chiến lần thứ 6, huyện đã trao 1.420 “Bảng vàng danh dự”, 2.879 bảng “Gia đình vẻ vang” cho gia đình chính sách trong huyện góp phần động viên, cổ vũ, tôn vinh những gia đình có con tòng quân, tạo không khí thi đua đầu quân trong các xã[3].
Tiền phương - hậu phương một lòng. Hậu phương thi đua với tiền phương. Những tin tức giảm tô, giảm tức và hào khí của các địa phương trong huyện đã làm nức lòng con em Hưng Nguyên chiến đấu trên các chiến trường. Tin chiến thắng Trung Lào, Thượng Lào, Điện Biên đã cổ vũ nhân dân các địa phương “nghiêng bồ, thổ thúng” tất cả để chi viện cho tiền phương đánh to, thắng lớn. Mặc dầu hơn 1/2 nhân lực đã đổ ra chiến trường nhưng trên các mặt trận hậu phương của huyện Hưng Nguyên vẫn giành nhiều thắng lợi nổi trội. Mùa xuân 1954, hơn 2.800 nam, nữ thanh niên Hưng Nguyên từ 17 - 45 tuổi tham gia tòng quân, đa số đều là dân quân đã được trải qua huấn luyện, nên nhanh chóng trưởng thành trong quân ngũ.
Đầu năm 1953, thất bại trong chiến dịch Việt Bắc thực dân Pháp phải rút toàn bộ quân về Na Sản, tập trung xây dựng tuyến phòng thủ Thượng Lào. Tháng 4/1953, Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng Lào mở chiến dịch Thượng Lào. Nghệ An và Thanh Hóa được Trung ương giao phục vụ chiến dịch này. Nghệ An đã huy động 72.940 dân công, sửa chữa 170 km đường, làm 100 cầu tạm, cầu phao trên tuyến đường 7 từ Phủ Diễn lên Mường Xén qua Lào. Đầu tháng 3 năm 1953, 12.000 dân công Nghệ An cùng 4 đại đội bộ đội địa phương theo đường 7 và sông Lam đã vận chuyển 700 tấn gạo, hàng ngàn con trâu, bò, hàng trăm tấn muối, cá khô, mắm kem và các nhu yếu phẩm khác sang phục vụ chiến dịch Thượng Lào. Thượng Lào, núi rừng trùng điệp, khí hậu khắc nghiệt, đường vận chuyển hiểm trở nhưng các đoàn dân công Nghệ An trong đó có dân công Hưng Nguyên đã không quản ngại hy sinh, gian khổ, vượt suối, băng ngàn để đưa hàng tới đích. Thượng Lào chiến thắng, quân dân Hưng Nguyên sung sướng tự hào đã góp sức người, sức của cho chiến thắng chung của hai dân tộc. Đối với Nghệ An, chiến thắng Thượng Lào có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì đã phá được vành đai phong tỏa của địch từ hướng Tây, tạo thuận lợi cho việc bảo vệ hậu phương và chi viện tiền tuyến.
Chuẩn bị cho cuộc tấn công Đông Xuân 1953 - 1954, Nghệ An, được giao nhiệm vụ mở con đường từ Thanh Hóa qua Phủ Quỳ đến Đô Lương dài 340km. Tỉnh đã huy động 6.000 dân công để sửa đường làm 3 cầu lớn, 32 cầu nhỏ, 53 cống và rải đá 150km đường cho xe vận tải chạy. 387 dân công Hưng Nguyên đã có mặt trên các công trường suốt 4 tháng, góp phần hoàn thành các hệ thống đường chiến lược này để tạo nên một hệ thống giao thông thủy - bộ nối liền các vùng trong tỉnh, nối liền Liên khu IV và Liên khu III, với bạn Lào.
Ngay sau khi quân ta mở cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, ngày 20/11/1953, Na-va cho đổ quân xuống Điện Biên Phủ và tung 6 tiểu đoàn khác đến xây dựng tuyến phòng thủ Nậm Me - Thượng Lào, Bộ Tổng tư lệnh quyết định giao cho Liên khu 4 phối hợp với Bạn mở chiến dịch Trung Lào để chia lửa với Điện Biên. Nghệ An và Hà Tĩnh được giao đảm nhiệm dân công phục vụ đường 8, đường 12 và Đông Bắc Miên. Trong một thời gian ngắn, tỉnh đã huy động 20.000 dân công bộ, dân công thuyền và 1.500 xe đạp thồ lên đường phục vụ chiến dịch Trung Lào. Cuối tháng 9 năm 1953, lần đầu tiên dân công nữ ở hai tỉnh đã xung phong ra phía trước làm nhiệm vụ cứu thương, tải thương. 218 dân công Hưng Nguyên lại vượt Trường Sơn sang giúp Bạn.
Chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn! Nhận lệnh hỏa tốc của Chính phủ, Tỉnh ủy, UBKCHC tỉnh phát lệnh tổng động viên các nguồn nhân lực, tài lực trong toàn dân. Đúng mùng một tết Nguyên Đán, các địa phương trong toàn tỉnh đã tổ chức đưa tiễn 32.000 dân công (trong đó có 2.000 dân công xe đạp thồ) cùng 36.000 tân binh, thanh niên xung phong, công nhân kỹ thuật quân giới... lên đường ra Điện Biên[4]. Chưa bao giờ hậu phương Hưng Nguyên dốc người, dốc của ra mặt trận cao độ và khẩn trương như vậy. Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng đã thành lời thề đi vào tình cảm, ý chí của từng người dân.
Hòng ngăn cản dòng chảy sức người, sức của ra tiền phương, trong cơn rẫy chết thực dân Pháp đã tập trung đánh phá các kho tàng, bến bãi, đường giao thông, khu dân cư hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Từ đầu năm 1953 đến tháng 7/1954, chúng đã 6 lần đem lính Âu - Phi đổ bộ vào các huyện ven biển và tổ chức ném bom 14/21 huyện ở Nghệ An. Chúng đã làm 841 người chết, 506 người bị thương, bắt 1.036 người, phá 536 thuyền, 577 nóc nhà, giết chết 900 con trâu, bò… Nhiều kho tàng, trường học, bệnh xá, nhà hộ sinh bị đánh phá, 5 xí nghiệp và công trình thủy lợi trọng điểm bị đánh hỏng. Trong hoàn cảnh ấy, các đảng bộ ở Hưng Nguyên vẫn vững vàng lãnh đạo nhân dân và lực lượng vũ trang huyện, vừa đáp ứng cao nhất yêu cầu của chiến trường, vừa đẩy mạnh xây dựng thế trận và lực lượng chiến đấu ở hậu phương. Huyện chủ trương: Thị trấn và các vùng đông dân sơ tán để tránh tổn thất. Chỉ đạo dân quân các xã tăng cường đào hầm hào giao thông, tăng cường nguỵ trang, tăng cường công tác bảo mật, phòng gian, phòng chống gián điệp, chuyển việc học tập của các trường, họp chợ vào ban đêm.
Trong ác liệt khó khăn, lực lượng vũ trang huyện đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho nhân dân. Vụ chiêm xuân 1953 - 1954 bị hạn hán nặng, huyện giao toàn bộ công tác thủy lợi nội đồng cho thanh niên và dân quân. Nhiều địa phương trong huyện đã chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng màu, trồng cây ngắn ngày cứu đói nhân dân, các xã đều triệt để tiết kiệm để giành lương thực cho tiền tuyến.
Cuộc kháng chiến càng gần thắng lợi, càng phải huy động sức người, sức của nhiều hơn. Huyện đã chỉ đạo các cấp ủy Đảng tổ chức đợt sinh hoạt quán triệt thư Hồ Chủ tịch và phát động quần chúng nhân dân thực hiện chính sách ruộng đất trong kháng chiến. Thư Bác đã được phổ biến đến tận từng người dân: “Muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế, chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân”
Công tác phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức từng bước chia lại ruộng đất cho dân nghèo đã mang lại nhiều lợi quyền cho nhân dân lao động, tạo động lực cho nhiệm vụ chi viện tiền phương, thiết thực củng cố hậu phương vững mạnh.
Ngày 22/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cờ “Quyết chiến quyết thắng” cho Quân đội, Người chỉ thị… “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không những về quân sự mà cả chính trị, không những trong nước mà cả quốc tế. Vì vậy toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải hoàn thành cho kỳ được…” Sau 56 ngày đêm “Khóet núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, gan không núng, chí không mòn”, kiên quyết, mưu trí, sáng tạo chiến đấu quân và dân ta đã đập nát cứ điểm Điện Biên Phủ. Cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ đã đập tan cố gắng cao nhất, cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, tạo điều kiện cho hiệp định Giơ - ne - vơ về Việt Nam được ký kết.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng vĩ đại nhất của quân và dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ. Đây là một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa trong thế kỷ XX. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá vào thành trì của hệ thống nô dịch thuộc chủ nghĩa đế quốc. Đảng bộ, nhân dân, lực lượng vũ trang huyện Hưng Nguyên tự hào đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang của  một địa bàn quan trọng hậu phương lớn của Nghệ An trong cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ giành độc lập dân tộc.

Tư liệu: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Hưng Ngu
 
Trung tá Ngô Đức Biểu
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An
ĐT: 0375273378
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây